Chiếc cờ sáu màu

 “Tôi là ai mà dám phê phán người đồng tính?” - Đức giáo hoàng Pope Francis

Chỉ có điều, tôn trọng người đồng tính và chấp nhận hôn nhân đồng tính lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.

Ngày 26/6/2015, Tòa án Tối cao Mỹ thông qua dự luật cho phép kết hôn đồng giới trong phạm vi toàn liên bang. Một người bạn nhỏ của tôi hỏi, rằng tôi nghĩ như thế nào về việc này.


Tôi bắt đầu lục tung trí nhớ (khá là tệ hại) của mình về những điều liên quan đến hôn nhân và hôn nhân đồng giới, nhưng có lẽ cuối cùng nên dừng ở một câu nói được phát biểu ngay sau khi dự luật này được thông qua của Tổng Giám mục Joseph Kurtz:

“Bất kể những gì một đa số sít sao tại Tòa án Tối cao có thể tuyên bố tại thời điểm này trong lịch sử, bản chất của con người và hôn nhân vẫn không thay đổi và không thể thay đổi. Chúa Jesus, với tình yêu bao la, dạy rõ ràng rằng, từ thuở ban sơ, hôn nhân là một kết hiệp suốt đời giữa một người nam và một người nữ. Việc bắt buộc định nghĩa lại hôn nhân trên khắp đất nước là một sai lầm khủng khiếp, làm tổn hại đến lợi ích chung và những người dễ bị tổn thương nhất trong số chúng ta, đặc biệt là trẻ em. Luật pháp có nhiệm vụ hỗ trợ các quyền cơ bản của mọi đứa trẻ được lớn lên, nếu có thể, bởi cha mẹ trong một gia đình ổn định.”

Câu hỏi đặt ra là, hôn nhân đồng giới là gì và để làm gì?

Đồng tính luyến ái là gì?

Có rất nhiều người ủng hộ hôn nhân đồng giới (tôi lưu ý là ủng hộ hoặc không ủng hộ hôn nhân đồng giới, chứ không phải tôn trọng hay kỳ thị người đồng giới, 2 khái niệm này hoàn toàn khác nhau) cho rằng, thực ra ngay từ thuở sơ khai, con người ta đã thực sự phát triển xu hướng tình dục đồng tính nhiều tương tự với dị tính và song tính. Các ví dụ lớn nhất có thể kể đến là từ các bức bích họa thời Hi-La, thần thoại về Hercules và cuốn sách vĩ đại Republic của Platon ở châu Âu, các giai thoại về những năm cuối đời Hán Vũ Đế, người Bacchá trên Con đường Tơ lụa, và các "tình bạn" vượt quá giới hạn cần thiết của rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới văn nhân Đông Á khác.

Hán Vũ Đế, sau khi mất người vợ mà ông hết mực yêu quý, ông ta dần dần trở thành 1 người đồng tính

Tuy nhiên, ngay cả như thế thì cũng không thể phủ nhận một sự thật rằng: Chỉ có khoảng 6,7% số trường hợp đồng tính nam và 5,3% số trường hợp đồng tính nữ có nguyên nhân đến từ mã gen, trong khi đó, 93,3% các trường hợp còn lại ở nam và 94.7% các trường hợp còn lại ở nữ có nguyên nhân đến từ xã hội, hay nói chính xác hơn là từ những chấn thương tâm lý.

Điều này có nghĩa là, đồng tính về mã gen nên được đánh giá như là một hiện tượng biến đổi gen hơn là một phần tất yếu của thế giới thông thường. Đồng thời, tất cả các trường hợp còn lại (với một tỷ lệ thực sự áp đảo) đều là những hệ quả tâm lý học xã hội. Đây là cách mà Michael Foucault nói về tình dục đồng tính:

"Thiên hướng Tình dục" về bản chất là một "sáng chế" của các nhà nước hiện đại, cuộc cách mạng công nghiệp, và chủ nghĩa tư bản.

Kết quả của sự thiếu gắn kết với gia đình (thiếu thốn bảo bọc của người cha hoặc mẹ trong một khoảng thời gian ấu thơ lâu dài), những chấn thương tâm lý về tình dục (không ngẫu nhiên khi tỷ lệ nữ đồng tính do xã hội cao hơn nam giới), khuynh hướng chấp nhận tình yêu đồng giới của xã hội và sự mất cân bằng nghiêm trọng về giới tính trong xã hội đó là những nguyên nhân chính dẫn đến tình yêu đồng giới. Điều này có nghĩa là, bất chấp rằng xu hướng tính dục đồng giới là một điều đáng được tôn trọng, nhưng nó vẫn không bao giờ là điều bình thường về mặt sinh học.

Những người ủng hộ hôn nhân đồng giới cũng khẳng định rằng, các loài động vật cũng có xu hướng tình dục đồng giới tương tự như con người. Tuy nhiên, đó chỉ là nói bề ngoài. Thực ra, tình dục đồng giới của chúng chỉ là những cú va chạm nhẹ, cọ xát cổ, lông vũ còn xa hơn chúng có cử chỉ ve vãn, thể hiện tình cảm gần gũi hơn thậm chí kết đôi và cùng nuôi con TRONG MỘT THỜI GIAN RẤT NGẮN, ngắn hơn rất nhiều so với tình dục dị tính của chính loài động vật đó. Nên nhớ, những cử chỉ ve vãn khác xa quá trình giao cấu! Khác rất xa!

Từ khi nào mà hôn nhân chỉ còn là một khái niệm khác của giao cấu hợp pháp?

Hôn nhân, từ khi bắt đầu tồn tại, vốn không được xem như là một hệ quả của tình yêu. Bất cứ xã hội, từ Đông sang Tây, từ thời công xã thi tộc đến suốt những kỷ nguyên dài của thời cận hiện đại, luôn xem hôn nhân là phương tiện để đạt được 2 mục đích và chỉ 2 mục đích:

- Tạo mối liên hết các dòng họ/dân tộc/đất nước bằng một cặp đôi nam nữ.
- Duy trì và phát triển gia tộc.

Đến khoảng cuối thế kỷ 20, với những cuộc khủng hoảng tan hoang thời hậu kỳ thế chiến và sự lớn mạnh của Chủ nghĩa Hiện sinh, hôn nhân bứt ra khỏi những mưu toan chính trị để trở thành một thứ gì đó tự do hơn, cái mà người ta gọi là "cưới nhau vì tình yêu" - những điều ngày xưa chỉ có trong những trang tiểu thuyết diễm tình làm nức lòng người.

Nhưng thực tế tàn khốc ít khi nào giống với tiểu thuyết tưởng tượng đầy lãng mạn của một nhà văn giàu đam mê nữ tính. Tình yêu đẹp là tình yêu bị ngăn cấm. Thế nên khi không còn ngăn cấm nữa, cái mà người ta gọi là tình yêu bỗng trở nên dễ dãi hơn bao giờ hết. Thế nhưng, đó lại là một câu chuyện khác!

Sau khi hôn nhân được xem như là kết quả của tình yêu, người ta lại bắt đầu không ngừng tái định nghĩa về tình yêu giữa một rừng các mối quan hệ xinh đẹp gần gũi với nó khác: Thứ gì đó cao hơn cả tình bạn, thứ gì đó quyến luyến hơn cả tình anh em, thứ gì đó gắn kết hơn cả tình đồng chí, thứ gì đó, thật bình yên...

Chà! Nói tới câu cuối thì chắc chắn là nhiều người tinh ý đã nhận ra rồi! Thứ gì đó thật bình yên. Thứ gì đó thật bình yên nói chung, và thật bình yên với những người bị chấn thương tâm lý (dĩ nhiên không phải những người ảo tưởng rằng mình bị chấn thương tâm lý như đa số các cô nàng tuổi teen lóc chóc của chúng ta rồi) nói riêng. Thứ gì đó khiến họ cảm thấy an toàn hơn là tình dục dị tính...

Thông thường, phụ nữ thường sẽ cảm thấy bình yên bên một người đầy nam tính và khiến họ, từ trong vô thức, cảm thấy được che chở. Ngược lại, đàn ông thường vô thức yêu thích những người phụ nữ tạo được cảm giác ôn hòa, yên ấm khi họ nghĩ về. Tuy nhiên, với những chấn thương tâm lý đủ lớn thời ấu thơ (bị xâm hại tình dục, sự thiếu thốn tình yêu từ người mẹ hoặc người cha trong một số trường hợp hạn hữu nào đó...), vô thức khiến người ta cảm thấy bình yên hơn ở những người đồng giới hơn là dị giới, những người quá... khác và quá... nguy hiểm so với họ.

Thế rồi, tình yêu đồng giới khiến họ tin rằng, họ cần phải đấu tranh để có được hôn nhân hợp pháp. Nói cách khác, tình yêu, thứ chỉ mới được công nhận là nền tảng của hôn nhân (một thứ nền tảng không vững chắc và vẫn đang bị nghi ngờ), đã khởi nguồn cho thứ gọi là hôn nhân đồng giới này.

Nhưng về bản chất, hôn nhân chính là sự hợp pháp hóa yêu cầu duy trì nòi giống. Lịch sử loài người luôn ghi nhận, cho dù là gắn kết dân tộc hay là phát triển gia tộc, bản chất của mọi cuộc hôn nhân đều là để sinh con, là để bảo vệ loài người, không phải bất kỳ nguyên nhân nào khác! Mọi cuộc hôn nhân gắn kết dân tộc, dù là quan trọng đến đâu, cũng sẽ bị phá vỡ nếu nó không thể tạo ra một sinh thể mới. Trần Thái Tông và Chiêu Thánh Công Chúa là một trong số 1 triệu ví dụ (*).

Thật là hết cách khi người Việt chẳng có lấy 1 bức tranh đẹp nào về cặp Thái Tông - Chiêu Thánh, đành phải trích từ phim Trần Thủ Độ

Có người cãi: Yêu thương và chăm sóc lẫn nhau mới là bản chất của hôn nhân chứ!

Thực chất, khi bạn kết hôn với một ai đó, bạn sẽ sống cùng họ đến cuối đời, thì vô thức đã chọn thay cho bạn: Giữa yêu thương và chăm sóc họ (như cái cách mà tình cảm gia đình đã hình thành), và khước từ chối bỏ họ. Đó là hệ quả, không phải là bản chất!

Đó cũng là lý do mà sau khi hoàn thành thiên chức làm cha mẹ, những người này vẫn tiếp tục sống với nhau bằng tình nghĩa. Một hệ quả của việc gắn kết lâu dài qua thời gian.

Lại có người lý luận rằng, các cặp vợ chồng ở phương Tây thường có xu hướng không sinh con. Thêm vào đó, rất nhiều cặp vợ chồng không thể sinh con.

Lý luận này chắc chắn là rất mạnh. Nhưng lý luận mạnh với lý luận đúng đắn vẫn còn cách nhau một khoảng rất dài.

Sự thật là, ngay cả khi không thể tạo ra sinh thể mới, những cặp vợ chồng này vẫn có đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ giống loài và duy trì xã hội dựa vào việc chăm sóc những đứa con nuôi, xóa bỏ những chấn thương tâm lý về tình dục thuở ấu thơ của những đứa trẻ, và quan trọng hơn, cho chúng thấy rằng, về bản chất, hôn nhân phải là quan hệ khác giới, thứ giúp con người duy trì sự tồn tại, chứ không phải đồng giới (khoảng 36% các trường hợp đồng tính bắt nguồn từ quan hệ gia đình). Nói một cách đơn giản, những đứa trẻ sẽ có nhiều nguy cơ mắc bệnh đồng tính hơn nếu chúng nhận thức rằng "cha mẹ" của chúng đều là nam, hoặc đều là nữ. Nếu điều này trở nên quá đỗi bình thường, thì nhân loại nên sẵn sàng với tương lai không thể sinh sản được nữa.

Tại sao không thể tiếp tục duy trì những tình yêu đồng tính đẹp nhưng không gắn kết bằng hôn nhân như tình bạn giữa Xuân Diệu - Huy Cận, Lý Bạch - Mạnh Hạo Nhiên, Hercules - Hylas...?

Hylas (trái) là người có một "tình bạn" lạ kỳ với Hercules

Tại sao phải kết hôn đồng giới khi mà anh có thể tận hưởng tình yêu của mình theo một cách bình thường?

Lý do chỉ có một, bởi vì thứ họ, những người đấu tranh vì hôn nhân đồng tính, cần không đơn giản chỉ là tình yêu, mà là tình dục đồng tính. Họ cần một cơ sở pháp lý thừa nhận việc "quan hệ lỗ hậu" giữa những người đồng tính là chính đáng và bình thường. Tình yêu mà không có tình dục thì chỉ là tình đồng chí. Trong khi những kẻ đam mê tình dục bừa bãi bất chấp pháp luật lại quá biến thái so với nguyên tắc đạo đức của họ.

Họ cũng có khả năng lý giải rằng, ngay cả trong các trường hợp tình dục dị tính, việc "chơi lỗ hậu" cũng là điều gì đó khá phổ biến.

Sự thật thì biến thái vẫn cứ là biến thái.

Tình dục vốn không được tự nhiên tạo ra để duy trì khoái lạc. Nó chỉ tạo ra khoái lạc để kích thích sự hấp dẫn giới tính, qua đó khiến các sinh vật ưa thích việc tạo ra con cái. Tuy nhiên, thực tế thì với tư cách là một sinh vật thông minh, con người biết cách để tận hưởng khoái lạc mà không nhất thiết phải tạo ra sinh thể mới. Và "chơi lỗ hậu" là một trong những cách phổ biến.

Nó không những đi trái với các quy luật tự nhiên, rằng hậu môn dùng để đi cầu, cấu trúc của nó không thực sự phù hợp để hoạt động tình dục, mà thậm chí, nó còn là một hành vi chống lại tự nhiên. Dưới đây là cách để suy luận

Ý nghĩa thực sự của hôn nhân đồng tính là: Tôi là một công dân, tôi có quyền hưởng khoái lạc một cách công khai và hợp pháp.

Nghe quá có vẻ hợp lý. Nhưng từ từ đã! Thứ gọi là khoái lạc, hay hành vi giao cấu đó, nó chống lại tự nhiên.

Con người muốn tự hạn chế nhân số của mình nên đã tạo ra các biện pháp tránh thai. Nhưng điều đó không có nghĩa là, các hành vi tình dục không tạo ra con cái là hợp lẽ tự nhiên.

Còn lý luận này có diễn tiến như sau: 

Nếu con người cần hạn chế sinh nở thì con người phải đồng ý quan hệ tình dục không sinh nở. Nếu con người chấp nhận quan hệ tình dục không sinh nở thì quan hệ tình dục đồng giới là hợp lẽ tự nhiên. 

Điều này cũng vô lý giống như: 

Tôi bắt anh vì anh là kẻ trộm, sẵn tiện tôi cần phải bắt luôn bạn anh vì anh với anh ta là bạn nên chắc chắn cùng là kẻ trộm.


Thật kinh tởm khi bạn nhận ra rằng, một thứ rất bình thường và đáng tôn trọng như đồng tính và những người tiến bộ ủng hộ công bình giới tính, trong cuộc đấu tranh này, đã vô tình ủng hộ một số thành phần vốn không quan tâm đến tình yêu đẹp, mà chỉ chăm chăm tìm cách hợp pháp hóa đam mê giao cấu của chính mình. 

Bởi vì, tình yêu, nhất là tình yêu đồng giới, những người đơn giản là không thể sinh con, chỉ đơn giản là một cảm giác bình yên và hạnh phúc khi được ở bên nhau, chứ không phụ thuộc vào tình dục trong cuộc sống hôn nhân.

Trúc Phong
-----------------
(*): Những người phản đối sẽ cãi rằng đó là âm mưu của Trần Thủ Độ. Nhưng suy nghĩ ngốc nghếch đó có thể dễ dàng bị gạt bỏ nếu bạn nhìn thấy rằng, thậm chí nguy cơ làm tan rã gia tộc khi cướp vợ Trần Liễu còn nguy hiểm hơn nhiều so với giữ lại Chiêu Thánh.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét